Còn gọi là chỉ xác, xuyên chỉ thực, xuyên chỉ xác.
Tên khoa học Citrus sp.
Thuộc họ Cam Rutaceae.
Chỉ thực (Fructus Aurantii immature) và Chỉ xác (Fructus Citri aurantii) đều là quả phơi khô của chừng hơn 10 cây chi Citrus và Poncirus thuộc họ Cam Rutaceae nhưng thu hái ở thời kỳ khác nhau.
Mô tả:
Chỉ thực là quả trấp hái vào lúc còn non nhỏ của cây Citrus Hystric D.C cây nhỡ rậm lá, có gai dài. Lá đơn mọc so le, hình bầu dục, dài 7-10cm. Hoa năm cánh trắng, thơm. Quả có vỏ sù sì, màu vàng nhạt, vỏ dày, vị đắng nhiều hạt.
Chỉ xác là quả hái vào lúc gần chín. Thường bổ đôi để phơi cho chóng khô.
Chỉ xác thường to hơn chỉ thực và thường bổ đôi. Chỉ vẫn là tên cây, xác là còn vỏ và xơ vì quả bổ đôi phơi khô ruột quả bị quắt lại.
Những cây cung cấp chỉ thực và chỉ xác:
Ngay tại Trung Quốc, người ta cũng hái chỉ thực và chỉ xác ở rất nhiều cây khác nhau, đây chỉ kể một số cây chính:
Poncirus trifolia Raf. tên Trung Quốc là chỉ hay câu kết.
Citrus wilsonii Tanaka tên Trung Quốc là hương viên
Citrus aurantium L. tên Trung Quốc là toan đăng hay câu đầu đăng, bì đầu đăng.
Citrus aurantium L. var amara Engl. tên Trung Quốc là đại đại hoa.
Ở Việt Nam ta cũng hái rất nhiều cây khác nhau thuộc họ Cam quít, việc xác định tên chính xác còn chưa làm được.
Phân bố, thu hái và chế biến:
Những cây có thể cho chỉ thực và chỉ xác mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi miền Bắc và miền Nam nước ta.
Muốn có chỉ thực, thường vào tháng 4 và tháng 6, người ta nhặt những quả non, rụng dưới gốc cây, rồi đem phơi khô hay sấy khô. Nếu quả to thì bổ đôi. Khi phơi không nên phơi nắng quá, quả sẽ có màu vàng xấu.
Muốn có chỉ xác, vào tháng 7-8 hái những quả gần chín, vỏ còn xanh, bổ đôi rồi phơi hay sấy khô.
Công dụng và liều dùng:
Chỉ thực và chỉ xác đều là những vị thuốc thông dụng trong đông y. Theo tài liệu cổ, thì chỉ thực và chỉ xác có vị đắng, chua, tính hơi hàn, vào hai kinh tỳ và vị. Tác dụng phá khí, tiêu tích, hóa đờm, trữ bĩ (bang ở bụng), lợi cách, khoan hung. Chỉ thực, chỉ xác tác dụng giống nhau nhưng chỉ xác yếu hơn. Mặc dù trong các quả này lúc tươi có tinh dầu nhưng người ta ít chú ý dùng tinh dầu, vì các vị này càng để lâu càng cho là tốt hơn.
Cả hai vị đều là những thuốc có tác dụng giúp sự tiêu hóa, trừ đờm. táo thấp, lợi tiểu tiện, ra mồ hôi,…
Ngày dùng 6 đến 12g (có thể dùng hơn) dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.
Tên khoa học Citrus sp.
Thuộc họ Cam Rutaceae.
Chỉ thực (Fructus Aurantii immature) và Chỉ xác (Fructus Citri aurantii) đều là quả phơi khô của chừng hơn 10 cây chi Citrus và Poncirus thuộc họ Cam Rutaceae nhưng thu hái ở thời kỳ khác nhau.
Mô tả:
Chỉ thực là quả trấp hái vào lúc còn non nhỏ của cây Citrus Hystric D.C cây nhỡ rậm lá, có gai dài. Lá đơn mọc so le, hình bầu dục, dài 7-10cm. Hoa năm cánh trắng, thơm. Quả có vỏ sù sì, màu vàng nhạt, vỏ dày, vị đắng nhiều hạt.
Chỉ xác là quả hái vào lúc gần chín. Thường bổ đôi để phơi cho chóng khô.
Chỉ xác thường to hơn chỉ thực và thường bổ đôi. Chỉ vẫn là tên cây, xác là còn vỏ và xơ vì quả bổ đôi phơi khô ruột quả bị quắt lại.
Những cây cung cấp chỉ thực và chỉ xác:
Ngay tại Trung Quốc, người ta cũng hái chỉ thực và chỉ xác ở rất nhiều cây khác nhau, đây chỉ kể một số cây chính:
Poncirus trifolia Raf. tên Trung Quốc là chỉ hay câu kết.
Citrus wilsonii Tanaka tên Trung Quốc là hương viên
Citrus aurantium L. tên Trung Quốc là toan đăng hay câu đầu đăng, bì đầu đăng.
Citrus aurantium L. var amara Engl. tên Trung Quốc là đại đại hoa.
Ở Việt Nam ta cũng hái rất nhiều cây khác nhau thuộc họ Cam quít, việc xác định tên chính xác còn chưa làm được.
Phân bố, thu hái và chế biến:
Những cây có thể cho chỉ thực và chỉ xác mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi miền Bắc và miền Nam nước ta.
Muốn có chỉ thực, thường vào tháng 4 và tháng 6, người ta nhặt những quả non, rụng dưới gốc cây, rồi đem phơi khô hay sấy khô. Nếu quả to thì bổ đôi. Khi phơi không nên phơi nắng quá, quả sẽ có màu vàng xấu.
Muốn có chỉ xác, vào tháng 7-8 hái những quả gần chín, vỏ còn xanh, bổ đôi rồi phơi hay sấy khô.
Công dụng và liều dùng:
Chỉ thực và chỉ xác đều là những vị thuốc thông dụng trong đông y. Theo tài liệu cổ, thì chỉ thực và chỉ xác có vị đắng, chua, tính hơi hàn, vào hai kinh tỳ và vị. Tác dụng phá khí, tiêu tích, hóa đờm, trữ bĩ (bang ở bụng), lợi cách, khoan hung. Chỉ thực, chỉ xác tác dụng giống nhau nhưng chỉ xác yếu hơn. Mặc dù trong các quả này lúc tươi có tinh dầu nhưng người ta ít chú ý dùng tinh dầu, vì các vị này càng để lâu càng cho là tốt hơn.
Cả hai vị đều là những thuốc có tác dụng giúp sự tiêu hóa, trừ đờm. táo thấp, lợi tiểu tiện, ra mồ hôi,…
Ngày dùng 6 đến 12g (có thể dùng hơn) dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.
Nguồn: Theo Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (2004)
Nhận xét
Đăng nhận xét