Còn gọi là cây sừng trâu, dương giác nữu, dương giác ảo, hoa độc mao ư hoa tử, cây sừng bò.
Tên khoa học Strophanthus divaricatus (Lour) Hook.et Arn, (Strophanthus divergens Graham, Penploca divaricate Spreng).
Thuộc họ Trúc đào Apocynaceae.
Mô tả cây:
Cây sừng dê là một cây nhỏ, cao chừng 3 đến 4,5m. Toàn thân cây và lá khi bẻ có nhũ dịch màu trắng sữa. Cành non vuông, gầy, màu nâu lục nhạt, cành già hình trụ nâu đen nhạt có khía dọc, nhiều đóm bì khổng trắng nổi lên. Lá mọc đối, hơi giống hình thìa, trên to dưới nhỏ, đầu nhọn, dài 5-9cm, rộng 2,5-5cm, gân lá gồm 6 đến 8 đôi không nổi rõ ở cả hai mặt, cuống lá dài 3-8mm, gầy, trên có lòng máng. Cụm hoa hình sim ở đầu cành, mang 1-3 hoa to, cuống hoa dài 1-1,5cm gần đài có một đôi lá bắc mọc đối. Đài hoa màu xanh hay vàng xanh, tràng hoa hình phễu rộng, trên xẻ làm 5 cánh màu vàng, đặc biệt phía trên của các tràng hẹp lại thành sợi, bầu trung, có 2 ngăn. Trồng ở vườn trường đại học dược khoa hà nội. Ra hoa vào tháng 2-3 (nhưng sau 3 năm chưa thấy có quả). Quả khô gồm hai đại dính vào nhau, đầu đại nhỏ nhưng tù, đại dài chừng 10cm đến 15cm, vỏ dày cứng. Khi chín mở ra có nhiều hạt có cuống và chùm lông mịn dài.
Cây sừng dê mọc rất nhiều ở việt nam, nhiều nhất ở hà tĩnh, nghệ an, quảng bình, quảng trị, thừa thiên, còn thấy mọc ở hòa bình, hà tây, ninh bình và nhiều nơi khác.
Cây này còn thấy mọc ở miền nam trung quốc tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, đảo Hải Nam. Trước đây tại nước ta cũng như tại Trung Quốc chưa được sử dụng. Sau ngày giải phóng Trung Quốc, cây này được nghiên cứu và được công nhận dùng làm thuốc thay thuốc chế từ những hạt Strophanthus trước đây vẫn phải nhập. Tại Việt Nam, từ ngày hòa bình lâlp lại chúng tôi chú ý tìm phát hiện lại nhưng mãi đến năm 1960 trường Đại học Tổng hợp mới phát hiện lại được lần đầu tiên ở Chi nê (Hòa Bình) và sau đó phát hiên đã phát hiện lại ở nhiều nơi kể trên. Hiện đã được nghiên cứu để đưa vào áp dụng trong lâm sàng.
Tính vị, tác dụng:
Hạt (cũng như cành, lá) có vị đắng, tính hàn, rất độc; có tác dụng cường tâm, tiêu thũng, chỉ dương, sát trùng khư phong thấp, thông kinh lạc. Lá có vị đắng, tính hàn, có độc; có tác dụng tiêu thũng, chỉ dương, sát trùng.
D-strophanthin trong hạt, có đầy đủ những tác dụng điển hình so với những tác dụng của Uabain. Nó có tác dụng trợ tim rõ rệt, làm chậm nhịp tim, tăng bài niệu, giảm các dấu hiệu xung huyết nội tạng và ngoại vi, có tác dụng nhanh dùng trong cấp cứu, có thể tiêm tĩnh mạch.
Công dụng:
Hạt được dùng trị đau phong thấp, trẻ em bị di chứng bại liệt, mụn nhọt ngứa lở, rắn độc cắn, đòn ngã tổn thương, và gãy xương. Lá được dùng tươi nấu nước rửa hoặc giã đắp trị đòn ngã tổn thương và ghẻ lở. Cành lá tươi có thể dùng trong nông nghiệp làm thuốc diệt côn trùng và giòi.
Hiện nay, người ta dùng hạt chiết D-strophanthin là hỗn hợp glucosid dùng chữa suy tim cấp và mạn tính, trường hợp suy tim không chịu tác dụng của thuốc loại Digitalin. Ngày dùng 1-2 ống tiêm, mỗi ống 2ml có 0,25mg D-strophanthin. Tiêm dung dịch nguyên hoặc pha loãng trong dung dịch glucose, tiêm thật chậm vào tĩnh mạch.
Dân gian thường dùng chất nhựa để bôi các vết mụn hắc lào ngoan cố. Nhưng nhựa này có độc, nhỡ ăn phải bị chết người, vào mắt có thể bị mù; khi dùng phải cẩn thận.
Nguồn: Theo Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (2004)
Nhận xét
Đăng nhận xét