Còn gọi là thủ ô, giao đẳng, dạ hợp, địa tinh, khua lình (Thái), măn đăng tua lình (Lào-Sầm Nưa), mằn năng ón (Thổ). Mần đăng = khoai lang, tua lình = con khỉ, vì giống củ khoai lang mọc ở chỗ khỉ hay đi lại.
Tên khoa học Polygonum multiflorum Thunb. Fallopia multiflora (Pteuropterus cordatus Turcz).
Thuộc họ Rau răm Polygonaceae.
Hà thủ ô đỏ (Radix Polygoni multiflori) là rễ củ phơi khô của cây hà thủ ô.
Mô tả cây:
Đây là một loại dây leo, sống nhiều năm. Thân mọc xoắn vào nhau. Mặt ngoài thân có màu xanh tía có những vân hoặc bì khổng, mặt thân nhẵn, không có lông. Lá mọc so le, có cuống dài. Phiến lá hình tim hẹp, dài 4-8cm, rộng 2,5-5cm, đầu nhọn, phía cuống hình tim, hoặc hình mũi tên, mép nguyên hoặc hơi lượn sóng, cả hai mặt đều nhẵn và không có lông. Lá kèm mỏng, màu nâu nhạt ôm lấy thân. Hoa nhỏ, đường kính 2mm, có cuống ngắn 1-3mm. Hoa mọc thành chùm nhiều nhánh. Cánh hoa màu trắng. Nhị 8 với 3 nhị hơi dài hơn. Bầu hình 3 cạnh, vòi ngắn gồm 3 cái rời nhau, nuốm hình mào gà, rũ xuống.
Phân bố, thu hái và chế biến:
Hà thủ ô mọc hoang ở rừng núi, nhiều nhất ở các tỉnh Tây Bắc sau đến các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai, Lai Châu, Tây Nguyên.
Có thể trồng bằng dây hay bằng hạt. Sau 4-5 năm trở lên mới có thể thu hoạch.
Thu hoạch cây mọc hoang thường tiến hành vào mùa thu hay mùa xuân, mùa thu tốt hơn. Đào về rửa sạch đất, bổ đôi hay bổ tư, đổ rồi phơi khô, có nơi không đồ mà phơi ngay, muốn có hà thủ ô miếng thì hái về còn tươi, đem thái ngay, đồ chín rồi phơi hoặc đồ chín rồi mới thái và phơi.
Có nhiều người đồ hà thủ ô với đậu đen, đồ rồi phơi, phơi khô lại đồ với đậu đen làm như vậy 9 lần đồ, 9 lần phơi cho miếng hà thủ ô đen mới dùng, gọi là hà thủ ô chế.
Công dụng và liều dùng:
Hà thủ ô được dùng ở phạm vi một vi thuốc nhân dân làm thuốc bổ, trị thần kinh suy nhược, các bệnh về thần kinh, ích huyết khỏe gân cốt, sống lâu, làm đen râu tóc.
Đối với phụ nữ, hà thủ ô được dùng chữa các bệnh sau khi đẻ, các bệnh xích bạc đới.
Nhiều công dụng trên cần được kiểm tra lại trên lâm sàng.
Liều dùng hàng ngày 12-20g dưới dạng thuốc sắc, thuốc rượu hoặc thuốc bột.
Nguồn: Theo Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (2004)
Nhận xét
Đăng nhận xét