Còn gọi là tiết cốt thảo. Tên khoa học Equisetum arvense L. Thuộc họ Mộc tặc (Herba Equiseti arvensis) là loài cây mộc tặc phơi khô.
Mô tả:
Mộc tặc là một loại cỏ sống lâu năm, thân rễ dài, có đốt, nằm sâu dưới đất (60-80cm), xuất hiện lên mặt đất hai thứ cành: cành bất thụ và cành hữu thụ.
Cành bất thụ xuất hiện sau và dài hơn cành hữu thụ, có thể dài đến 20-30cm, chia thành từng dóng, mang ở mỗi mấu một vòng lá nhỏ hình sợi dính liền vào nhau tại phía gốc thành một thứ bẹ ôm lấy cành. Cành có thể có nhiều nhánh con, những nhánh này cũng mọc vòng từ các mấu. Các dóng của cành đều rỗng, chỉ ở ngang mấu thì dày, phía ngoài có nhiều rãnh dọc mỗi rãnh ứng với một lỗ khuyết trong phần vỏ.
Cành hữu thụ (xuất hiện trước cành bất thụ vào đầu mùa xuân) thường màu nâu không phân nhánh, mang nhiều vòng bào tử diệp xếp xít lại phía đầu cành thành một bông trong giống đầu nhọn bút lông.
Phân bổ, thu hái và chế biến:
Mọc ở nhiều nơi, nhưng ít chú ý dùng làm thuốc. Hái toàn cây về, bó lại thành từng bó con phơi khô; Mùa thu hái vào tháng 9-10.
Công dụng và liều dùng:
Theo tài liệu cổ: Vị ngọt hơi đắng, tính bình, vào 3 kinh phế, can và đảm. Có tác dụng giải cơ, cầm máu, tan màng mắt. Dùng chữa mắt đau chảy nước mắt, trĩ, huyết lỵ, băng trung.
Mộc tặc là một vị thuốc dùng trong nhân dân, có tác dụng lợi tiểu và cầm máu dùng trong bệnh chảy máu ruột và bệnh trĩ, còn dùng chữa đau mắt, ho hen, lỵ ra máu. Liều dùng mỗi ngày 5-15g dưới dạng thuốc sắc.
Đơn thuốc có mộc tặc:
Mộc tặc 15g, phù bình 10g, xích đậu 100h, táo đen 6 quả, nước 600ml, sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày, chữa bệnh phù thũng, viêm thận do bệnh ngoài da (Bài thuốc kinh nghiệm của Diệp Quyết Tuyền).
Chú thích:
Ngoài mộc tặc nói trên, trong đông y còn dùng cây Equisetum hiemale L. cùng một công dụng
Nguồn: Theo Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (2004)
Nhận xét
Đăng nhận xét