Còn gọi là địa đao, á thực, hắc phong tử, thử niêm tử.
Tên khoa học Arctium lappa L. Thuộc họ cúc Asteraceae (Compositae).
Cây ngưu bàng cho các vị thuốc sau đây: Ngưu bàng tử, (Fructus Arctii - Fructus Bardanae) là quả chín phơi hay sấy khô của cây ngưu bàng. Đông Y thường dùng quả, Tây Y thường dùng rễ với tên grande bardane. Vì cây trông xấu xí, sần sùi, sắc xạm như da trâu (ngưu là trâu bò) do đó có tên này.
Mô tả:
Ngưu bàng là một cây sống hằng năm hay hai năm, cao chừng 1m-1,5m, phía trên phân nhiều cành. Lá mọc thành hoa thị ở gốc và mọc so le ở trên thân. Lá to rộng, hình tim, đường kính tới 40-50cm, cuống lá dài, mặt dưới lá mang nhiều lông trắng. Cụm hoa hình đầu, mọc ở đầu cành, đường kính 2-4cm. Cánh hoa màu hơi tím. Quả bé, màu xám nâu, hơi cong. Mùa hoa tháng 6-7, mùa quả tháng 7-8.
Phân bố, thu hái và chế biến:
Cây ngưu bàng mới di thực từ Trung Quốc sang ta từ năm 1959. Ngay tại Trung Quốc, nguồn cung cấp chủ yếu cũng do trồng mà có chứ rất ít thu thập ở những cây mọc hoang. Trong đợt điều tra dược liệu Lào Cai tháng 7-1967, đoàn điều tra đã thấy ở vùng cao huyện Bát Xát có cây ngưu bàng mọc hoang.
Vào các tháng 8-9, khi quả chín thì hái về, đập lấy quả phơi khô là được. Khi hái cần đeo găng cho khỏi bị gai ở quả đâm vào tay.
Nếu dùng rễ thì hái từ mùa xuân năm thứ hai, trước khi ra hoa, nếu không, rễ sẽ bị xơ nhiều và mất hết tác dụng. Hái quả chín vào tháng 8-9 thì cần gieo ngay, hạt mọc mới tốt. Sau khi gieo 18 tháng, tức là mùa xuân năm sau, đào rễ về rửa sạch, thái thành từng miếng dày 2cm, phơi hay sấy cho thật khô, mới khỏi mốc hỏng.
Công dụng và liều dùng:
Tây Y dùng rễ ngưu bàng hái vào mùa xuân làm thuốc thông tiểu, ra mồ hôi, tẩy máu dùng trong các bệnh tê thấp, đau và sưng khớp, một số bệnh ngoài da (hắc lào, mặt có nhiều trứng cá, lở loét v.v..).
Còn dùng cho người bị đường tiện( đái đường) vì người ta cho rằng cao rễ ngưu bàng có tác dụng hạ glucoza trong máu, dùng cuống và thân cây làm thức ăn có tác dụng tăng lương glycogen trong gan, còn có tác dụng chữa mụn nhọt. Hoạt chất chưa rõ. Ngày dùng 3 lần, mỗi lần 0,6g cao thuốc ổn định, có thể dùng bột ổn định. Uống luôn trong 3 ngày.
Đông Y thường và chỉ dùng quả (gọi nhầm là hạt) để chữa cảm cúm, thông tiểu và chữa sốt, chữa sưng vú, cổ họng sưng đau, viêm phổi, viêm tai. Đối với mụn nhọt đang mưng mủ, hoặc tràng nhạc thì có tác dụng chóng vỡ và khỏi. Đối vwois bệnh sởi đậu cũng có tác dụng làm cho chóng khỏi.
Ngày dùng 6-10g dưới dạng thuốc sắc, dùng tỳ vị hư hàn, ỉa lỏng không dùng được.
Nhân dân châu Ân còn dùng lá non và thân, có khi dùng cả rễ đem giã nhỏ rồi đắp vào nơi rắn độc, sâu bọ, ong, muỗi và rết cắn, có lẽ do tác dụng của các men oxydaza có nhiều trong lá và thân.
Nguồn: Theo Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (2004)
Nhận xét
Đăng nhận xét