Còn có tên là bạch phục linh, phục thần. Tên khoa học Poria cocos Wolf. (Pachyma hoelen Rumph.). Thuộc họ Nấm lỗ Polyporaceae.
Mô tả:
Nấm này mọc ký sinh trên rễ cây thông. Vì người ta cho phục linh là linh khí của cây thông nấp ở dưới đất, do đó mà đặt tên. Nếu nấm mọc xung quanh rễ khi đào lên có rễ thông ở giữa nấm thì gọi là phục thần. Người ta cho loại này có tác dụng yên thần phách, chữa sợ hãi, mất ngủ.
Nấm hình khối to, có thể nặng tới 5kg. Nhỏ có thể bằng nắm tay. Mặt ngoài màu xám đen, nhăn nheo có khi thành bướu. Cắt ngang sẽ thấy mặt lổn nhổn hoặc trắng (bạch phục linh) hoặc hồng xám (xích phục linh). Bột phục linh có màu trắng xám, chủ yếu gồm các khuẩn ty, bào tử, cuống đám tử.
Phân bố:
Phục linh hiện nhập của Trung Quốc. Loại tốt nhất mọc ở Vân Nam gọi là Vân Linh. Hiện đã phát hiện thấy có ở vùng Đà Lạt.
Công dụng và liều dùng:
Tính chất phục linh theo tài liệu cổ: Vị ngọt, nhạt, tính bình, vào 5 kính tâm, phế, thận, tỳ và vị. Có tác dụng lợi thủy, thẩm thấp, bổ tỳ, định tâm, dùng chữa tiểu tiện khó khăn, thủy thũng trướng man, tiết tả, phục thần định tâm, an thần chữa hồi hộp mất ngủ.
Trong nhân dân, phục linh được coi là vị thuốc bổ, thuốc lợi tiểu, dùng trong bệnh thủy thũng. Còn dùng làm thuốc trấn tĩnh, chữa các trường hợp mất ngủ, hay sợ hãi, di tinh.
Ngày dùng 5-10g dưới dạng thuốc sắc, bột hay viên.
Đơn thuốc có phục linh:
Chữa bệnh thủy thũng: Phục linh 10g, mộc thông 5g, tang bạch bì 10g, nước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia làm 3 lần uống trong ngày.
Đơn thuốc chữa phù thũng, sợ hãi: Phục linh 8g, cam thảo 3g, quế chi 4g, sinh khương 3g, nước 400ml, sắc còn 200ml. Chia làm 3 lần uống trong ngày.
Chữa vết đen trên mặt: Tán bột phục linh mà bôi.
Nguồn: Theo Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (2004)
Nhận xét
Đăng nhận xét