Còn gọi là mồng tơi dỏ, mồng tơi tía, lạc quỳ, phak pang (Lào).
Tên khoa học Basella rubra L. (Basella alba L.). Thuộc họ Mồng tơi Basellaceae.
Mô tả cây
Mồng tơi là một dây leo, sống hằng năm hay hai năm. Thân mọc cuốn, dài 1,50-2m. Thân có phân nhánh, màu xanh nhạt hoặc tím nhạt. Lá mọc so le, đơn nguyên, mẫm, có cuống, phiến lá hình trứng, đầu nhọn, phía cuống bằng hay hơi hẹp lại, dài 3-12cm, rộng 2-6cm. Cụm hoa hình bông mọc ở kẽ lá, nhỏ, màu trắng hay tím đỏ nhạt. Những bông ở phía trên dài và gầy hơn. Quả mọng, nhỏ hình cầu hay hình trứng, dài chừng 5-6mm, màu tím đen khi chín.
Phân bố
Cây này nguồn gốc ở các nước nhiệt đới của châu Á và châu Phi. Tại Việt Nam, cây này mọc hoang và được trồng cho leo hàng rào để lấy rau ăn. Người ta hái thân và lá vào mùa hạ và mùa thu.
Công dụng
Trong nhân dân, chỉ thường dùng rau mồng tơi nấu canh ăn cho mát. Ít dùng làm thuốc.
Nhưng trong sách cổ có ghi là rau mồng tơi có vị chua, hàn, hoạt, không độc, chủ trị hoạt trung, tán nhiệt, lợi đại tiểu trường.
Nhân dân Indonexia dùng rau mồng tơi làm thuốc chữa trẻ con bị táo bón, phụ nữ đẻ khó, nước ép quả dùng nhỏ mắt chữa đau mắt.
Người ta còn dùng để nhuộm đỏ các loại mứt, nếu thêm chanh thì màu đậm hơn, nhưng không nên cho nhiều quá.
Tại Trung Quốc, có người dùng rau mồng tơi đắp chữa vú sưng nứt, giải độc.
Nguồn: Theo Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (2004)
Nhận xét
Đăng nhận xét