Còn gọi là thảo cao, hương cao, thanh hao. Tên khoa học Artemisia apiaceae Hance. Thuộc họ Cúc Artemisia (Compositae).
Mô tả:
Thanh cao là một loại cỏ mọc hằng năm hay hai năm, cao chừng 0,3-1,5m, rất nhiều cành ngay từ giữa cây. Toàn thân có mùi thơm. Lá mọc so le, hai lần xẻ lông chim, phiến lá chét rất nhỏ, mép nguyên hoặc mỗi dìa có 1-3 chỗ rách nhỏ. Cuống là ngắn và hẹp. Cụm hoa hình đầu, đường kính 6mm, trông như một quả con. Xung quanh là hoa cái ở giữa là hoa lưỡng tính.
Phân bố, thu hái và chế biến:
Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc Việt Nam, nhiều nhất ở Hà Nội, Hải Hưng (xã Tân Quang, thôn Nghĩa Trai), Lạng Sơn, Cao Bằng. Còn thấy ở ven bờ sông, bờ biển.
Tại các nước khác cũng có như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Triều Tiên. Vào các tháng 7-10, cây ra hoa kết quả, hái về, phơi hay sấy khô. Để nơi khô ráo.
Công dụng và liều dùng:
Theo tài liệu cổ, thanh cao vị đắng, tính hàn, vào 2 kinh can và đởm. Có tác dụng thanh thử tịch uế, trừ âm phận phục nhiệt. Dùng chữa sốt chưng, lao nhiệt, mồ hôi trộm, sốt rét, mụn nhọt.
Thanh cao chỉ mới thấy dùng trong Đông y làm thuốc chữa các chứng sốt (sốt cảm, sốt do bệnh phổi, thương hàn), sốt mà mồ hôi không ra được, mồ hôi trộm, vàng da. Đông y cho rằng vị thanh cao dùng lâu không có hại, mà còn làm cho ăn ngon cơm, chóng tiêu, chữa mệt mỏi về cơ thể và trí não.
Còn dùng cầm máu, chữa đổ máu cam, đại tiện ra huyết.
Dùng ngoài da có tính chất sát trùng, chữa mụn nhot lở ngứa.
Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc. Có thể dùng tới liều 20g một ngày.
Nguồn: Theo Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (2004)
Nhận xét
Đăng nhận xét