Còn gọi là muỗm, swai (Campuchia), makmounang (Vientian), manguier.
Tên khoa học Mangifera indica L.
Thuộc họ Đào lộn hột Anacardiaceae.
Mô tả cây:
Cây to cao 15-20m. Lá nguyên, mọc so le đơn, thuôn dài, nhẵn, bóng, dài 15-30cm, rộng 5-7cm. Hoa nhỏ, màu vàng nhạt, thành chùy ở đầu cành. Qủa hạch khá to, hạch dẹt, hình thận, cứng trên có những thớ sợi khi nảy mầm thì hơi mở ra. Hạt có lớp vỏ mỏng, màu nâu, không phối nhũ, lá mầm không đều.
Phân bổ, thu hái và chế biến:
Nguồn gốc ở các nước nhiệt đới châu Á, hiện được phổ biến trồng ở khắp những nước nhiệt đới khác. Tại miền nam xoài là một cây được trồng rất phổ biến.
Ngoài quả ra, người ta còn dùng vỏ thân, nhựa thân, hạt và lá làm thuốc. Qủa thu hoạch vào mùa hè, các bộ phận khác thu hái quanh năm. Tại miền bắc, ngoài cây xoài còn có loài gần với xoài là cây quéo (Mangifera reba) và cây muỗn (Mangifera foetida).
Công dụng và liều dùng:
Thường người ta thái thành từng miếng mỏng ngâm trong rượu vang và đường, thêm ít quế cho thơm. Người ta còn dùng chế mứt, đóng hộp (thường hai loại hàng: nước xoài và xoài ngâm nước đường). Tại một số nước như Ấn Độ, người ta thái xoài xanh thành miếng mỏng phơi hay sấy khô dùng làm nguồn vitamin C thiên nhiên.
Vỏ quả xoài chín cũng như quả xoài có tác dụng cầm máu tử cung, khái huyết, chảy máu ruột dưới dạng cao lỏng với liều 10g cao lỏng cho vào 120ml nước rồi cứ cách một hay hai giờ cho uống một thìa cà phê.
Nhân xoài sấy khô tán bột được nhân dân Malayxia, Ấn Độ và Braxin dùng làm thuốc giun với liều 1,5 đến 2g. Tại Malaixia nhân dân còn dùng chữa chảy máu tử cung, trĩ. Tại Philipin, người ta dùng chữa ỉa chảy: nghiền 20g-25g nhân với 2l nước, nấu kỹ cho tới khi cạn còn hơn 1l thì lọc để bỏ bã, thêm vào nước lọc 300-400g đường và tiếp tục đun cho tới khi còn 1l. Mỗi ngày dùng hai hay ba lần, mỗi lần dùng 50-60g thuốc chế như trên.
Vỏ thân xoài dùng tươi hay khô. Tươi thì giã vắt lấy nước, được dùng như vỏ quả. Vỏ khô dùng dưới dạng thuốc sắc. Nhân dân Campuchia dùng chữa thấp khớp (đắp nóng bên ngoài), hoặc rửa khí hư bạch đới của phụ nữ. Tại miền bắc, vỏ xoài được dùng sắc uống chữa thuốc sốt hay chữa đau răng (ngậm và nhổ đi).
Nhựa vỏ cây xoài chảy ra có màu đen không mùi, vị đắng hắc, ra không khí đặc lại, hòa vào nước chanh dùng bôi ghẻ.
Lá xoài được dùng tại một số vùng ở Ấn Độ để nuôi trâu bò nhưng lá già chứa một lượng nhỏ chất độc cho nên nếu cho trâu bò ăn lâu ngày có thể gây ngộ độc chết trâu bò.
* Đơn thuốc có vỏ xoài:
Chữa đau răng: Vỏ xoài phơi khô 3 phần, quả me 1 phần, bồ kết 1 phần. Tất cả sấy khô tán nhỏ. Cho vào nơi răng đau đã rửa sạch.
Nguồn: Theo Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (2004)
Nhận xét
Đăng nhận xét